Soạn giả Viễn Châu tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh năm 1924 tại
xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ông thành thạo từ nhỏ đàn
tranh và đàn guitar phím lõm, đặc biệt tuyệt kỷ đàn tranh của ông đã
được xem là độc nhất vô nhị, và đến hiện tại chưa có người thế nổi. Nếu
với nghệ danh Bảy Bá ông được xem là nhạc sĩ bậc thầy, thì với nghệ danh
Viễn Châu ông đã leo lên ngôi báu với vương hiệu là “Vua viết lời vọng
cổ”.
Vua viết lời vọng cổ Viễn Châu
Tài năng đo ni đóng giày của ông cũng xếp hàng thượng thừa, vì nhờ
những bài vọng cổ của ông mà rất nhiều nghệ sĩ thời vàng son của cải
lương đã thành danh như : Út Bạch Lan, Thanh Hương, Thanh Nga, Ngọc
Giàu, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Minh Cảnh,
Thanh Sang, Phương Quang, Minh Vương...
Viễn Châu là một soạn giả cổ nhạc hi hữu. Hi hữu vì đến hiện tại ông
đã là tác giả của gần 70 vở cải lương lớn nhỏ và trên dưới 2 000 bài
vọng cổ, lập kỷ lục chưa ai phá nổi trong làng sân khấu cải lương! Hi
hữu là vì khán giả cải lương xưa nay có thói quen là chỉ quan tâm đến
nghệ sĩ, tên tuồng hay tên bài ca mà ít quan tâm đến tên soạn giả, thậm
chí nghệ sĩ biểu diễn có khi còn không biết mình đang ca bài của soạn
giả nào, ấy vậy mà người mộ điệu cải lương Miền Nam từ già đến trẻ ai mà
không biết soạn giả Viễn Châu!
Nếu soạn giả Viễn Châu là hi hữu thì bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu
của ông lại càng hi hữu. Hi hữu vì Viễn Châu có đến 2000 bài vọng cổ, ấy
thế mà khi nhắc đến Viễn Châu là người ta nghĩ ngay đến Tình Anh Bán
chiếu. Hi hữu là vì bài ca này không chỉ làm bất tử tên tuổi của ông, mà
còn đưa vào huyền thoại người được mệnh danh là “Vua ca vọng cổ Út Trà
Ôn”.
Lãng du cùng Tình Anh Bán Chiếu
Bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu có nội dung đơn giản. Bài ca là tâm sự
của một thanh niên đến từ Cà Mau làm nghề bán chiếu, khi ghe chiếu anh
cặp bến ở Ngã Bảy Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang, anh được một cô gái đặt làm
đôi chiếu, được cô dẫn vào tận phòng riêng để đo ni chiếc giường. Thời
gian trôi qua, khi anh trở lại giao chiếu như giao hẹn thì cô gái đã
sang ngang. Cô sang ngang mà có biết đâu anh bán chiếu đã thầm thương
trộm nhớ, và anh cảm thấy tủi cho thân phận bán chiếu của mình.
Có nhiều câu chuyện được thêu dệt xung quanh chuyện tình anh bán
chiếu. Có người còn mạnh dạng cho rằng, soạn giả Viễn Châu một lần nọ
khi ghé qua Ngã Bảy Phụng Hiệp đã gặp anh bán chiếu thất tình, ông đến
trò chuyện và biết được câu chuyện tình dở dang của anh nên đã viết nên
bài ca Tình Anh Bán Chiếu. Thế nhưng, theo soạn giả Viễn Châu, thì vào
năm 1959, nghệ sĩ Út Trà Ôn về ký hợp đồng với hãng dĩa Hồng Hoa. Bà chủ
hãng đĩa mới đề nghị Viễn Châu viết gấp một bài đặc biệt cho Út Trà Ôn
ca với mục đích là “làm náo động thị trường”.
Viễn Châu tìm trong trí nhớ và nhớ ra có một lần ông đi từ Bạc Liêu
về Sài Gòn, tới khu chợ nổi Phụng Hiệp thì xe hơi bị chết máy, phải đậu
lại sửa, khi ngồi nghỉ, Viễn Châu chợt thấy một anh chàng tay ôm đôi
chiếu bông đứng mệt nhọc giữa trưa nắng như chờ ai trước một căn nhà
đóng kín, xa xa lại có một đám cưới. Hình ảnh đó đã gây ấn tượng mạnh
trong lòng một nghệ sĩ đầy cảm xúc như Viễn Châu và ông đã hóa thân
thành anh bán chiếu nọ để được yêu, được tâm sự. Thế là bài ca Tình Anh
Bán Chiếu đã ra đời.
Nội dung bài ca khá đơn giản. Có người còn cho rằng, khi nghe kỹ rõ
ràng thấy tình tiết câu chuyện phi lý, vì anh bán chiếu có cớ gì để thất
tình, anh và cô gái nọ chưa từng hò hẹn với nhau mà chỉ là quan hệ
người bán chiếu và người đặt mua chiếu mà thôi. Thế thì tại sao bài ca
lại đi sâu vào lòng người đến thế? Lại được người mộ điệu say mê đến
thế? Đến mức trở thành bài vọng cổ được phổ biến nhất đến thế? Đến mức
làm bất tử tên tuổi hai ông vua của làng cổ nhạc Miền Nam đến thế?
Câu trả lời có lẽ trước tiên nằm ở cái gọi là “tâm hồn nghệ sĩ”. Tình
yêu vốn không có qui luật nên yêu đơn phương cũng không có qui luật, mà
tình yêu của nghệ sĩ lại càng không có qui luật. Tâm hồn nghệ sĩ vốn dễ
xao động và dễ đồng cảm với những cung bậc hỉ nộ ái ố của cuộc đời,
huống chi đối với một nghệ sĩ lớn như Viễn Châu, với 2000 bài ca và được
người mộ điệu yêu thích, thì thử hỏi cái tâm hồn nghệ sĩ đó ở Viễn Châu
nó mới “mong manh” đến dường nào.
Còn nói về nội dung thì chính cái nội dung đơn giản của bài Tình Anh
Bán Chiếu đã khiến nó dễ dàng đi vào lòng người, nhất là người miền sông
nước Nam Bộ vốn mộc mạc và giàu tình cảm. Có một điều ta có thể khẳng
định chắc chắn rằng, một bài ca muốn được người mộ điệu yêu thương và
ghi nhớ đòi hỏi trước hết phải “chạm” được cảm xúc của người mộ điệu,
tức phải tìm được sự đồng cảm của người mộ điệu, nói cách khác là người
nghe tìm được chính mình trong bài vọng cổ. Sự phổ biến “kỳ lạ” của Tình
Anh Bán Chiếu suốt hơn nửa thế kỉ nay là một minh chứng hùng hồn rằng
Viễn Châu đã “chạm” được cảm xúc của người Nam Bộ, tức đến cái tính mộc
mạc trong cuộc sống đời thường nhưng không kém “sự dạt dào cảm xúc”
trong tình yêu đôi lứa.
Vua ca vọng cổ - Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn
Út Trà Ôn sinh năm 1919 tại làng Đông Hậu, huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh
Long. Ông là con thứ mười trong gia đình và cũng là cuối cùng, tức thứ
Út theo cách gọi của người Nam Bộ. Năm 1937, ông được giới thiệu với đài
phát thanh Sài Gòn và từ đó chính thức có nghệ danh là Út Trà Ôn, một
kiểu lấy tên vừa để nhớ gia đình vừa để nhớ quê hương Trà Ôn của ông.
Xuất thân nhà nghèo nông thôn, Út Trà Ôn bắt đầu một sự nghiệp lẫy
lừng trên sân khấu cải lương từ năm 18 tuổi. Cách diễn xuất của ông mộc
mạc, chân phương, lại là người rất khó tính trong nghề, luôn có chí cầu
tiến học hỏi, bởi vậy ông là một bậc thầy trong diễn xuất. Vỡ tuồng ghi
đậm dấu ấn nhất trong lòng người mộ điệu là vỡ “Tuyệt Tình Ca” ông đóng
cặp với Sầu nữ Út Bạch Lan, Bạch Tuyết và Thanh Sang thì đóng vai hai
đứa con là Trường An và Long Hồ.
Lớp ca diễn để đời là lớp ông tái ngộ vợ hiền sau nhiều năm xa cách,
Út Trà Ôn ca với Út Bạch Lan ba câu vọng cổ, đây là ba câu vọng cổ để
đời của hai nghệ sĩ bậc thầy này. Út Trà Ôn mở đầu bằng 4 câu nói lối
như sau: “Tôi đứng đây tưởng chừng như đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, lúc
mình quay xuồng trở lại với hai con. Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn,
con nước lớn lục bình trôi rời rạc”, Cải lương chi bảo Bạch Tuyết nhận
xét: khi nghe ông ngâm đoạn này, cô cảm thấy được ngay trước mắt cảnh
rời rạc của lục bình trôi trên sông Mỹ Thuận. Quả thật như vậy, đúng là
ông đã đưa trọn tình cảm và nghệ thuật ca cổ thượng thừa vào lời ca để
nó trở nên truyền cảm một cách thần sầu đến như vậy.
Ấy thế nhưng khi nhắc đến Út Trà Ôn người mộ điệu nghĩ ngay đến cái
tài ca vọng cổ của ông, một giọng ca và một cách ca mà đến hiện tại vẫn
chưa có người kế tục xứng đáng. Năm 1960, ký giả Trần Tấn Quốc, người
lập giải Thanh Tâm danh giá cho sân khấu cải lương, đã mở cuộc thăm dò ý
kiến độc giả, và Út Trà Ôn đã được chọn là “Đệ nhất danh ca”. Báo chí,
đồng nghiệp và người mộ điệu phong cho ông là “Vua ca vọng cổ”. Danh
hiệu “đệ nhất danh ca” thì dù đã có đôi lần báo chí sau này tổ chức bầu
chọn cho những nghệ sĩ thế hệ sau ông, nhưng đến hiện tại hễ nhắc đến
“Đệ nhất danh ca” thì không hiểu sao người ta lại nghĩ ngay đến Út Trà
Ôn.
Còn cương vị “Vua ca vọng cổ” thì hầu như vẫn nghiễm nhiên được người mộ điệu dành cho Út Trà Ôn.
Đi vào kỹ thuật ca, ta thấy Út Trà Ôn có giọng đồng, trầm. Kiểu ca và
giọng ca của ông đã được xếp thành một trường phái ca vọng cổ riêng và
luôn được xếp hàng đầu khi có người tìm hiểu về các trường phái ca vọng
cổ. Ông được xếp đầu cũng đúng thôi vì trước Út Trà Ôn rõ ràng chưa có
giọng ca nào được nổi danh như ông. Út Trà Ôn cũng chính là nghệ sĩ tiên
phong trong việc phổ biến vọng cổ nhịp 32, một bài bản phổ biến nhất
hiện nay.
Út Trà Ôn ca chân phương, mùi mẫn, hùng tráng, âm vực rộng, không
ngân mà thường "hơ" đúng chất tài tử, phân nhịp độc đáo, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa ca và diễn. Đây là trường phái ca mẫu mực, không lạng bẻ,
kiểu cọ. Giọng ca này hoàn toàn tương thích với bản chất của bài vọng cổ
là “tự sự”, là “chân phương hoa lá”. Nghe Út Trà Ôn ca ta không cần
nhìn ông diễn cũng có thể cảm nhận được rõ ràng sắc thái tình cảm mà
người viết gửi gắm, người nghe không còn chú ý đến nhịp nhàng tới câu
mấy nữa, mà bị ru hồn bởi nội dung bài hát mà ông “tự sự” và bởi kỹ
thuật ca điêu luyện, cách xấp chữ và ca chẻ nhịp độc nhất vô nhị.
Thế hệ sau cũng có nhiều người theo trường phái ca này, nhưng để gọi
là kế thừa xứng đáng thì quả thật chưa có ai. Soạn giả Viễn Châu nhận
xét về giọng ca Út Trà Ôn như sau: “Cách rèn giọng của anh được người
trong nghề kính phục vì biết tạo âm vực đủ để khi phát âm được tròn vành
rõ chữ. Anh còn có khiếu sắp văn chẻ nhịp….Nếu lắng nghe Út Trà Ôn ca
và có óc phân tích, bạn sẽ nhận biết ngay thế mạnh của anh trong câu
vọng cổ là chữ “hơ” điêu luyện và dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã chất chứa sự
giàu có của làn hơi”.
Út Trà Ôn bất tử cùng Tình Anh Bán Chiếu
Nếu nhắc đến Vọng Cổ lập tức người yêu thích hay không yêu thích cổ
nhạc đều nghĩ ngay đến bài Tình Anh Bán Chiếu, mà hễ nhắc đến Tình Anh
Bán Chiếu thì lập tức nghĩ đến Út Trà Ôn và Viễn Châu. Tên tuổi Út Trà
Ôn trước khi đến với bài Tình Anh Bán Chiếu cũng đã có tiếng rồi, thế
nhưng với bài Tình Anh Bán Chiếu thâu ở hãng dĩa Hồng Hoa, giọng ca Út
Trà Ôn đã thật sự làm chấn động làng cổ nhạc, và bài ca này đã làm bất
tử tên tuổi của ông.
Sau Út Trà Ôn đã có nhiều nam nghệ sĩ thuộc hàng “đại gia” trong sân
khấu cải lương ca lại bài Tình Anh Bán Chiếu, dù rằng mỗi người mỗi vẻ,
mỗi người có cái hay riêng, thế nhưng không hiểu sao hễ nghe Út Trà Ôn
ca Tình Anh Bán Chiếu thì người nghe mới thấy “đã cái lỗ tay”. Vì sao
thế, có lẽ bởi vì giọng ca Út Trà Ôn là chân phương, buồn bả nên hoàn
toàn thích hợp để thể hiện một bài vọng cổ chân phương buồn bả như Tình
Anh Bán Chiếu, còn những kiểu ca lạng bẻ, kiểu cọ rõ ràng là không thích
hợp với bài hát này. Nói cách khác, ta có thể tìm thấy tất cả những đặc
trưng của giọng ca Út Trà Ôn qua Tình Anh Bán Chiếu.
Chiếu Cà Mau, Ngã Bảy Phụng Hiệp và Tình Anh Bán Chiếu
Chỉ một bài vọng cổ chưa đầy mười phút nhưng đã đưa hai người lên
“ngôi báu”, đồng thời còn làm bất tử một “người” khác đó là “chiếu Cà
Mau”. Mới mở đầu bài ca Viễn Châu đã viết : “Chiếu Cà Màu nhuộm màu tươi
thắm, công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu, chiếu này tôi chẳng bán đâu,
tìm cô không gặp tôi gối đầu mỗi đêm”. Ta bàn thêm một chút về “Chiếu Cà
Mau” để hiểu rõ thêm bài Tình Anh Bán Chiếu.
Xưa kia, tại làng Tân Thành (nay là xã Tân Thành, thành phố Cà Mau,
tỉnh Cà Mau) đã hình thành làng chiếu Tân Thành, trải dài gần chục cây
số dọc bờ sông Cái Nhúc bởi một số quân binh của vua Gia Long trên đường
đi cầu Xiêm đã chán ghét chiến tranh, tìm đến lập nghiệp. Thời kỳ cực
thịnh, chiếu Tân Thành đã vang danh khắp Nam kỳ lục tỉnh, ghe xuồng
xuôi ngược trên dòng sông Cái Nhúc, lớp mang hàng ra chợ Cà Mau bỏ cho
vựa, lớp xuôi về Ngã Bảy ra Phụng Hiệp, Phong Điền bán. Bởi vậy chiếu
Tân Thành cũng là đại diện cho chiếu Cà Mau.
Nhờ Tình Anh Bán Chiếu mà vùng Ngã Bảy Phụng Hiệp cũng trở nên nổi
tiếng ngoài sức tưởng tượng, đến mức mà một lãnh đạo của Huyện Phụng
Hiệp thốt lên: “Nhờ bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu mà Ngã Bảy Phụng Hiệp
được nổi danh khắn vùng Nam Bộ”. Ngã Bảy Phụng Hiệp là môt vùng kinh
sáng thuộc huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang. Tại đây có Chợ Nổi Phụng
Hiệp nổi tiếng được đề cập trong bài Tình Anh Bán Chiếu. Chợ Nổi Phụng
Hiệp từng một thời là đầu mối giao thương lớn của miền cực nam, và hiện
tại là một địa điểm du lịch nổi tiếng của vùng đất này. Đây là một nơi
giữa đồng quê sông nước đầy ấp phù sa dễ gây xúc cảm tâm hồn nghệ sĩ :
”Bảy sông dồn nước, cuồn cuộn nước
Phù sa lớp lớp, quyện phù sa”
(Ca dao)
Và nhờ có Viễn Châu và Út Trà Ôn mà miền đất này bên cạnh phù sa triễu nặng còn chất chứa thêm nỗi lòng của Tình Anh Bán Chiếu :
« Sông sâu bên lỡ bên bồi,
tình anh bán chiếu trọn đời không phai. »
(Hai câu kết bài Tình Anh Bán Chiếu)
Như vậy, ở Tình Anh Bán Chiếu, ta có thể tìm thấy trọn vẹn những tinh
hoa trong làng hơi điêu luyện, cách ca chân phương với lối nhấn nhá chẻ
nhịp thần sầu của Vua ca vọng cổ Út Trà Ôn, tìm thấy trọn vẹn lối viết
vọng cổ đảm bảo được cái hồn « tự sự » của bản vọng cổ với bố cục rõ
ràng khúc chiết, lời văn rất nên thơ và rất « vô khuôn » của Vua viết
lời vọng cổ Viễn Châu.
Một bài ca vọng cổ chỉ có 6 câu với chưa đầy 10 phút nhưng đã đưa
người ca là nghệ sĩ Út Trà Ôn và người viết là soạn giả Viễn Châu lên «
ngôi báu » và đã làm bất tử tên tuổi của hai ông cùng với nghề chiếu Cà
Mau và Ngã Bảy Phụng Hiệp.
Cái « liên danh » Tình Anh Bán Chiếu-Út Trà Ôn-Viễn Châu-Chiếu Cà
Mau-Ngã Bảy Phụng Hiệp đã trở nên bất tử trong lòng người mộ điệu cải
lương nói chung và vọng cổ nói riêng. Bấy nhiêu thôi cũng đủ khằng định
rằng, bài Tình Anh Bán Chiếu Xứng đáng là “Bài vọng cổ vua” của làng cổ
nhạc Miền Nam.
Ngày nay, số lượng bài ca vọng cổ ra đời nhiều vô kể, thế mà đa phần
đều làm thất vọng người nghe. Trong khi đó, đến hiện tại, người yêu cổ
nhạc ai mà không mê Tình Anh Bán Chiếu và giọng ca Út Trà Ôn. Điều đó
khẳng định rằng, nếu biết khai thác cái chất tự sự, mộc mạc và chân
phương của bản vọng cổ thì bản vọng cổ vẫn luôn có sức hút phi thường.
_________________________________________________________